Thứ Ba, 26 tháng 7, 2016

Điềm báo ngày tàn của Yahoo

Trong một trò chơi của các lãnh đạo Yahoo 10 năm trước, nhắc đến Google, họ nhớ đến tìm kiếm, nói tới Microsoft, họ biết là Windows, nhưng với Yahoo, chẳng ai thống nhất được câu trả lời.
Khi các lãnh đạo Yahoo tụ họp tại một khách sạn ở San Jose (California, Mỹ), để nghỉ ngơi vào mùa xuân 2006, chẳng có dấu hiệu nào cho thấy công ty sắp khủng hoảng. Khi đó, đại gia Internet vừa kết thúc năm 2015 với 1,9 tỷ USD lợi nhuận trên 5,3 tỷ USD doanh thu.
Những ngày khó khăn khi bong bóng dot com vỡ vụn đã là ký ức xa xôi. Và Yahoo đang tận hưởng những hợp đồng quảng cáo béo bở từ các thương hiệu lớn nhất thế giới. Họ đang là cái tên dẫn đầu trong ngành công nghiệp hot nhất toàn cầu.
Sau đó, họ bắt đầu chơi trò chơi, yêu cầu mọi người nói ngay từ đầu tiên xuất hiện trong đầu khi nhắc đến tên một công ty. Thế là eBay đi kèm với đấu giá, Google là tìm kiếm, Intel - bộ vi xử lý, Microsoft - Windows. Nhưng khi đến Yahoo, "có người nói Mail, có người nói Tin tức, người khác lại bảo Tìm kiếm", Brad Garlinghouse - Phó chủ tịch cấp cao của Yahoo khi đó nhớ lại.
Dù các lãnh đạo cho biết đây chỉ là hoạt động năm nào cũng làm vài lần, nó cũng là dấu hiệu báo trước rắc rối sắp bắt đầu. Nguyên nhân chính là sự khủng hoảng về độ nhận diện.
Yahoo từng là cái tên dẫn đầu trong ngành Internet thế giới. Ảnh: AP
Trên thực tế, sự lụi tàn của Yahoo là sản phẩm của những quyết định sai lầm suốt hơn một thập kỷ qua. Trong cuộc phỏng vấn của Reuters với hàng chục cựu lãnh đạo Yahoo, họ đều đồng ý rằng sự suy yếu của Yahoo là do các lựa chọn của cả lãnh đạo và hội đồng quản trị công ty trong giai đoạn đỉnh cao giữa những năm 2000.
Họ đã bỏ lỡ nhiều cơ hội khá rõ ràng - mua Facebook với 1 tỷ USD năm 2006, mua Google năm 2002. Họ cũng không kịp mua YouTube. Rồi Skype lại bị eBay nẫng tay trên. Năm 2008, Microsoft muốn mua Yahoo với giá 45 tỷ USD, nhưng cũng bị lãnh đạo Yahoo từ chối.
Ngoài các thương vụ bị bỏ lỡ, văn hóa công ty quá quan liêu và tập trung vào hình thức quảng cáo truyền thống, trong bối cảnh công nghệ biến đổi nhanh chóng, cũng là một nguyên nhân. "Nếu anh tạo ra một sản phẩm mới, nhưng trang chủ không muốn tích hợp nó, anh sẽ bị từ chối", Greg Cohn - cựu giám đốc sản phẩm cấp cao của Yahoo cho biết.
Tệ nhất là, khi Google thay thế Yahoo làm công cụ tìm kiếm số một trên Internet, Yahoo không thể quyết định được họ sẽ trở thành công ty như thế nào nữa.
Thời hoàng kim, Yahoo sử dụng màu tím biểu tượng của họ mọi lúc mọi nơi, trên bánh quy, bánh kem, thảm trải và cả ly rượu. "Khi Coca Cola đến văn phòng, chúng tôi lại trải thảm tím ra", Wenda Harris Millard – cựu giám đốc bán hàng của Yahoo cho biết.
Khi đó, tất cả các công ty lớn, từ Coke đến General Motors đều muốn tới văn phòng của Yahoo ít nhất một lần mỗi năm. "Chúng tôi chỉ việc ký những hợp đồng khổng lồ với họ", Millard cho biết.
Tuy nhiên, một trong những vấn đề của Yahoo là họ kiếm tiền bằng cách bán quảng cáo, giống y như cách các tờ báo in tồn tại vậy. Vì họ cho rằng mình là công ty truyền thông, chứ không phải hãng phần mềm. Họ kiếm tiền bằng quảng cáo, thay vì bán phần mềm.
Paul Graham - đồng sáng lập hãng hỗ trợ khởi nghiệp Y-Combinator từng tỏ ra khó hiểu với quan điểm này của Yahoo. Vì theo quan sát của ông, với văn phòng đầy các lập trình viên và các giám đốc sản phẩm luôn nghĩ về tính năng hỗ trợ người dùng, Yahoo lẽ ra phải là một hãng phần mềm.
"Hậu quả tồi tệ nhất của việc cố trở thành một hãng truyền thông chính là họ không coi trọng việc lập trình. Microsoft, Google và Facebook đều có văn hóa chú trọng vào lập trình. Còn Yahoo thì chỉ coi đó như một loại hàng hóa", Graham cho biết.
Hậu quả của việc này trở nên rõ ràng hơn sau đó. Năm 2003, Yahoo mua Overture - công ty phát minh ra công nghệ quảng cáo theo từ khóa tìm kiếm đã giúp Google trở nên giàu có. Tuy nhiên, họ không bao giờ có thể tạo ra một đối thủ mạnh để cạnh tranh được với AdWords và AdSense của Google.
Trong khi đó, các sản phẩm đang dẫn đầu thị trường như Yahoo Mail, và các nền tảng truyền thông xã hội như Yahoo Group đều gặp khó, khi các giám đốc tranh cãi sản phẩm nào nên được ưu tiên trên trang chủ Yahoo. Những nền tảng vừa được mua lại với nhiều tiềm năng, như ứng dụng chia sẻ ảnh Flickr hay đánh dấu đường dẫn Delicious, đều bị lép vế trong cuộc chiến này.
Các nhân viên Yahoo khi đó đều quay cuồng với những cuộc họp nội bộ không ngừng nghỉ và sản phẩm ưu tiên thay đổi liên tục. Kết quả là tiền bị chia ra cho quá nhiều mảng, nên mỗi mảng chỉ nhận được không đáng kể.
Đến năm 2007, Yahoo để mất thị phần rất nhanh vào tay Google. Các đối thủ mới như Facebook hay Netflix cũng ngày càng lớn mạnh. Lời đề nghị mua lại từ Microsoft năm 2008 đã gây chia rẽ sâu sắc trong nội bộ Yahoo. Và tình trạng này vẫn còn tiếp diễn dù Microsoft đã rút lại lời chào mua.
Đồng sáng lập Yahoo - Jerry Yang rời công ty năm 2008. Yahoo từ đó đã thay 3 CEO, cho đến khi bà Marissa Mayer được bổ nhiệm năm 2014.
"Biến động lãnh đạo đã khiến cả hội đồng quản trị, ban lãnh đạo và các nhân viên nói chung rất khó tập trung vào cùng một mục tiêu", Dan Rosensweig - cựu COO Yahoo cho biết.
Khi Mayer nhậm chức, Yahoo đã bị Thung lũng Silicon coi là công ty từ thế kỷ khác. Họ có nhiều tiền mặt, nhưng ít lợi thế chiến lược so với các đối thủ lớn hơn nhiều. Rất nhiều nhà phân tích cho rằng Mayer chỉ khiến Yahoo càng gặp rắc rối với các thương vụ mua lại và những đợt tuyển dụng sai lầm.
Sau thương vụ với Verizon hôm qua, Mayer cho rằng quy mô mới sẽ giúp Yahoo bắt kịp trong mảng di động, quảng cáo và mạng xã hội. Nhưng lịch sử ngành công nghệ cho thấy việc hồi sinh sẽ là rất khó.
Hà Thu
(theo Reuters/ Vnexpress)

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Einstein và lời tiên tri về căn bệnh thế giới mắc phải đang trở thành sự thực?

Sau hơn 6 thập kỷ, dường như lời tiên tri của nhà bác học đại tài Einstein đang dần trở thành sự thực?
Einstein (1879 – 1955) từng nói: “Tôi sợ cái ngày mà công nghệ sẽ lấn át sự giao tiếp giữa con người với con người. Thế giới lúc đó sẽ có một thế hệ toàn những kẻ đần độn”. Dù đã mất cách đây khoảng 60 năm, nhưng lời dự đoán về thế giới thời công nghệ hiện đại của ông vẫn khiến chúng ta ngạc nhiên bởi sự chính xác của nó.
Lo lắng của Einstein về sự bùng nổ của công nghệ.
Sự bùng nổ công nghệ dường như không còn là vấn đề mới trong cuộc sống hiện đại. Ngày nay bạn có thể dễ dàng sở hữu cho mình bất cứ thiết bị công nghệ nào từ smartphone, laptop, ipad… để phục vụ cho nhu cầu trao đổi thông tin một cách nhanh chóng và tiện lợi. Bên cạnh đó, sự ra đời của các trang mạng xã hội dường như dễ dàng xóa bỏ mọi khoảng cách địa lý và giúp cho chúng ta kết nối với mọi người trên khắp thế giới.
Tuy nhiên, có rất nhiều điều mà chúng ta cần suy ngẫm bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ. Việc đam mê thái quá những sản phẩm, ứng dụng công nghệ, Internet hay mạng xã hội đã khiến cho nhiều bạn trẻ dần bị cuốn vào cuộc sống ảo mà xa rời hiện thực. Khái niệm “nghiện công nghệ” đã dần xuất hiện để ám chỉ một bộ phận những người đang trở nên phụ thuộc vào các thiết bị công nghệ.
Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của bệnh “nghiện công nghệ” ở nhiều bạn thanh, thiếu niên khi công khai quá lố thông tin hay hoạt động cá nhân mình trên những mạng xã hội như facebook, twitter hay youtube… Mỗi khi đi ăn chơi với bạn bè, người yêu họ thường đăng trên trang cá nhân về những hoạt động ăn uống, vui chơi của mình thông qua chức năng check-in trên Facebook hay upload ảnh trên instagram, camera360, photo wonder…

8 năm sau ngày mạng xã hội Facebook ra đời (tính đến thời điểm 2012), số người dùng Facebook tăng kỷ lục, nhiều hơn dân số của quốc gia đông dân nhất thế giới (Trung Quốc). Hơn 1 tỷ người dùng (tính đến năm 2012; con số quá lớn đối với một mạng xã hội) là hơn 1 tỷ cặp mắt cắm cúi, chăm chú vào màn hình smartphone.
Nhiều trẻ em bây giờ được tiếp xúc với công nghệ từ rất sớm, thao tác trên máy tính rất thành thục, thế nhưng có những việc nhỏ nhặt như tự vệ sinh thân thể hay lựa chọn trang phục phù hợp… thì vẫn chưa làm được. Có bé mới học lớp 2 nhưng đã biết vào mạng chơi game hay chat với bạn bè, thế nhưng khi thử kiểm tra khả năng tính toán của em bằng một phép tính cộng trừ đơn giản thì hoàn toàn không làm được và thú nhận rằng, với bất kỳ phép toán nào cũng chỉ quen tay bấm máy tính chứ không quen tính nhẩm.
Dường như càng hiện đại thì con người ta càng tách biệt và sống ích kỷ hơn.
Hãy xem bộ ảnh dưới đây để thấy Einstein đúng như thế nào khi nói về những “cơn nghiện” công nghệ, mạng xã hội thời nay!
▲Nhiều người quen nhìn cuộc sống qua lăng kính của Facebook.
▲”Tôi sợ cái ngày mà công nghệ sẽ lấn át sự giao tiếp giữa con người với con người. Thế giới lúc đó sẽ có một thế hệ toàn những kẻ đần độn”
▲Chúng ta có đang tự “giam cầm” mình trong các trang mạng xã hội?

▲Hẹn hò thời công nghệ! 
▲Liệu công nghệ có đang khiến chúng ta dần trở nên vô cảm?

▲Câu Like! 

▲Những zombie nghiện điện thoại! 

▲Còn ai quan tâm đến lũ trẻ? 

▲Lòng tốt được đo đếm bằng like… 
▲Vâng! Bạn không bao giờ cô đơn vì “cả thế giới” luôn cạnh bạn!
▲Anh ấy (áo trắng) chắc đang nghĩ mình lạc lõng giữa chốn đông người (xe bus, tàu điện ngầm…)

▲Chúng ta dần quên đi cách giao tiếp của mình… 
▲Phạm sai lầm hay mắc lỗi ư? Không lo, lên Facebook xưng tội thôi…

▲Có mắt mà như… 
▲Khi chìm ngập trong thế giới của công nghệ, của mạng xã hội, người ta “đóng hòm” sách lại…

▲… và xây dựng những ốc đảo cho riêng mình. 

▲Nghiện Facebook: Căn bệnh không virus! 

Thứ Ba, 17 tháng 5, 2016

Nạn TIẾN SĨ VUI VẺ ở Việt Nam

Thật nguy hiểm cho đất nước khi có nhiều ‘tiến sĩ vui vẻ’

- “Nếu chỉ dựa trên những giá trị ảo, đất nước sẽ trống rỗng, không khác mấy thị trường chứng khoán” - PGS.TS Phan Quang Thế, Hiệu trưởng Trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp (ĐH Thái Nguyên) nêu ý kiến khi trao đổi với VietNamNet.
Thưa ông, hẳn là đã từng ngồi tại các hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ, ông có quan sát gì?
Trong điều kiện đào tạo tiến sĩ ở ta như hiện nay, chất lượng của các luận án tiến sĩ đang phụ thuộc vào hai yếu tố: một là thầy hướng dẫn; hai là hội đồng đánh giá.
tiến sĩ vui vẻ, lò sản xuất tiến sĩ, Phan Quang Thế, đổi mới giáo dục

 Ông Phan Quang Thế: Văn hóa kiểu nhân văn “vạn cái lý không bằng tý cái tình” đã xoay ngòi bút của các thành viên trong hội đồng.

Nếu người thầy hướng dẫn luận án theo số lượng, chỉ để đủ tiêu chuẩn công nhận GS, PGS... hay vì những quyền lợi khác thì luận án sẽ khó có chất lượng cao.
Quy trình đào tạo tiến sĩ rất chặt, không ai có thể nói sai cả. Nhưng việc tổ chức bảo vệ thì hoàn toàn phụ thuộc tâm trạng người ngồi hội đồng. Có thực tế ở VN là quan niệm “như thế cố gắng lắm rồi, bỏ qua được”.
Có lần làm chủ tịch hội đồng bảo vệ luận án, tôi đã nói “cái này không được”, nhưng bậc thầy của mình lại nói nghiên cứu sinh khổ nọ, khổ kia; chả lẽ lại gây khó khăn cho họ? Rồi có luận án đọc tên đã sai hoàn toàn, tôi viết thư cho hiệu trưởng trường họ đang công tác thì họ trả lời vòng vèo. Xong rồi lại ổn hết.
Bảo vệ thạc sỹ, tiến sỹ cứ hội đồng quyết là qua, mà đa số các hội đồng đều quyết, bởi vì chỉ cần một câu tặc lưỡi của một thầy “thế này là cố gắng lắm rồi”.
Rồi văn hóa kiểu nhân văn “vạn cái lý không bằng tý cái tình” đã xoay ngòi bút của các thành viên trong hội đồng. Vô tình từng ngày, từng giờ nhiều hội đồng đã và đang làm hỏng cả một sự nghiệp, một nền văn hóa hiếu học của dân tộc. Thầy, cô trung thực thì cho là khó tính, không có tình người, xa lánh, không mời hoặc có mời thì cũng nhìn như người ngoài hành tinh.
Nói thế không phải không có những hội đồng rất nghiêm túc nhưng những hội đồng như thế đã là thiểu số từ lâu rồi.
Đội ngũ thạc sỹ, tiến sỹ này lại bổ sung vào đội ngũ giảng viên đại học và cứ thế giá trị ảo trong đội ngũ sẽ tăng dần đến một ngày không biết phần thật còn lại bao nhiêu nữa?
Vậy theo ông, làm sao để hết những câu chuyện xuề xòa, cả nể cho qua như vậy?
Tôi chỉ có 1 đề nghị: anh có luận án, có điểm mới gì thì chỉ ra, công bố công khai, ai đọc sẽ biết ngay.
Chỉ cần mấy trang tóm tắt đó được công khai thôi, dư luận, giới khoa học có thể bình luận, đánh giá. Đề tài, nội dung vớ vẩn là lộ ra ngay.
Đây không phải là đề xuất gì mới mà là điều tôi đã nói ở nhiều nơi, nhiều hội thảo rồi.
Vậy tại sao thực trạng như ông vừa nói vẫn diễn ra?
Giáo dục là một bộ phận của xã hội. Có thực tế là trong xã hội chúng ta giá trị thật đang mất đi nhanh, thay vào đó là giá trị ảo lại được cư xử như giá trị thật.
Tôi có 2 con gái học thạc sĩ, tiến sĩ vất vả bên Mỹ, trở về VN lương vẫn ngang bằng người làm nhàn hạ. Các con như “gà công nghiệp”, không thể cất nhắc vào chức nọ chức kia nên rốt cuộc lại là “quân” của các tiến sĩ vui vẻ trong nước.
Một trong những lý do khiến nhiều tiến sĩ đi đào tạo ở nước ngoài không muốn về nước làm việc, theo tôi, là do không chỉ chế độ dành cho họ không khác gì tiến sĩ đào tạo trong nước, mà còn phải làm cấp dưới của mấy ông tiến sĩ trong nước, tiếng Anh còn không thạo, kém hơn họ đủ thứ… Thử hỏi, họ chịu sao nổi?
Trong khi họ khó mon men được đến các chức vụ vì kém đứt khoản “quan hệ”, còn bị khó chịu, ghen ghét vì giỏi hơn.
Hệ lụy của những giá trị ảo thay thế cho giá trị thật như ông nói sẽ đi tới đâu?
Nếu xã hội chỉ nằm trên giá trị ảo thì đất nước trống rỗng, không khác mấy thị trường chứng khoán.
Một tiến sĩ năng lực trình độ không là tiến sĩ lại đi dạy tiếp cho sinh viên, hướng dẫn người khác rồi sẽ làm cả đất nước không phải thật, nền kinh tế cứ ngày càng suy kém.
Bạn hãy xem ai có nhà to nhất nước mình, nhiều tiến nhất có phải họ là nhà khoa học chân chính không? Tài năng của họ đến đâu? Chắc chỉ 10-20% trong số đó là thật.
Họ toàn nhờ cái ảo, kiếm tiền thật đấy chứ?
Ở VN mình, có bằng tiến sĩ được cất nhắc các chức vụ, ví dụ không là tiến sĩ thì không được là trưởng khoa, trưởng bộ môn. Có bằng cấp, đi ra ngoài mọi người tưởng là ghê gớm.
Có cách nào thoát khỏi thực trạng đau xót đó, thưa ông?
Cần tìm được người chân chính lãnh đạo, nhưng rất khó vì giờ quá nhiều người không chân chính.
Như tôi cải cách Trường ĐH Kỹ thuật công nghiệp (ĐH Thái Nguyên) để trở thành trường mà năng lực ngoại ngữ của sinh viên, giảng viên sẽ thuộc trường tốp đầu cả nước. Thế nhưng tôi đã phải chịu những sức ép không chân chính rất lớn. Cứ động chạm lợi ích là phản đối, không cần biết việc đó tốt cho dân nước hay sinh viên.
Xin cảm ơn ông!
Theo thống kê của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ), ở Việt Nam đang có hơn 24.000 tiến sĩ. Bộ Giáo dục và Đào tạo thống kê (năm 2015) có khoảng 15.000 tiến sĩ (bao gồm cả các giáo sư, phó giáo sư) công tác tại các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng.
Văn Chung(thực hiện)

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2016

Ý nghĩa mã xác nhận


Một CAPTCHA (ˈkæptʃə, đọc giống như "capture") là một loại kiểm thử dạng hỏi đáp được dùng trong máy tính để xác định xem người dùng có phải là con người hay không. "CAPTCHA" là một dạng sắp đặt chữ đầu của "Completely Automated Public Turing test to tell Computers and Humans Apart" (Phép thử Turing công cộng hoàn toàn tự động để phân biệt máy tính với người), được trường Đại học Carnegie Mellon cố gắng đăng kí thương hiệu nhưng đã bị bác bỏ[2]. Đây là một quá trình một máy tính (máy chủ) yêu cầu một người dùng hoàn tất một kiểm tra đơn giản mà máy tính có thể dễ dàng tạo ra và đánh giá, nhưng không thể tự giải nó được. Vì máy tính không thể giải quyết CAPTCHA, bất kỳ người dùng nào nhập vào lời giải đúng sẽ được xem là con người. 

Thuật ngữ CAPTCHA được Luis von Ahn, Manuel Blum, Nicholas J. Hopper (tất cả đều thuộc Đại học Carnegie Mellon), và John Langford (khi đó thuộc IBM) đặt ra vào năm 2000. Một loại CAPTCHA phổ biến yêu cầu người dùng phải nhập các chữ cái trong một tấm hình méo mó, đôi khi cùng với một dãy số hoặc chữ lờ mờ xuất hiện trên màn hình.

Một CAPTCHA đôi khi được mô tả như một phép thử Turing ngược, vì nó được một máy tạo ra và nhắm vào con người, ngược lại với phép thử Turing chuẩn do con người tạo ra và nhắm vào máy.

Hiện nay, reCAPTCHA được những người đã chế tạo ra CAPTCHA ban đầu khuyên dùng như cách hiện thực CAPTCHA chính thức[3].

Đặc điểm
Một hệ thống CAPTCHA là một dạng thử thách mới được tạo ra tự động trong đó:
* Các máy tính hiện nay không thể giải được một cách chính xác.
* Đa số con người có thể giải được[3].
* Không phụ thuộc vào loại CAPTCHA đó có mới lạ đối với kẻ tấn công hay không. Mặc dù một hộp kiểm "nhấn vào đây nếu bạn không phải là máy" có thể được dùng để phân biệt giữa người với máy tính, nhưng nó không phải CAPTCHA vì nó phụ thuộc vào sự thật là kẻ tấn công không phải mất quá nhiều công sức để phá biểu mẫu kiểu đó.

Nguồn gốc
Sự khó khăn tiềm tàng trong việc phân biệt giữa người và máy tính mạo danh con người đã được đề ra từ những năm 1950, khi Alan Turing mô tả phép thử Turing mà ngày nay đã trở nên rất nổi tiếng của ông. Cuộc bàn luận đầu tiên về các thử nghiệm tự động để phân biệt con người với máy tính với mục đích kiểm soát sự truy cập các dịch vụ web xuất hiện trong bản thảo năm 1996 của Moni Naor từ Viện Khoa học Weizmann, có tên "Lĩnh vực xác minh con người, hay Sự định danh thông qua Phép thử Turing" Naor, Moni (1996). "Verification of a human in the loop or Identification via the Turing Test"..

Những CAPTCHA nguyên thủy có lẽ được phát triển vào năm 1997 tại AltaVista, do Andrei Broder và đồng nghiệp của ông sáng tạo để ngăn ngừa bot thêm URL vào bộ máy tìm kiếm của họ. Để khiến cho hình ảnh chống lại được OCR (Nhận dạng ký tự quang học), nhóm đã mô phỏng những tình huống mà những cuốn hướng dẫn bộ quét cho rằng sẽ dẫn đến kết OCR sai. Vào năm 2000, von Ahn và Blum đã phát triển và công khai khái niệm CAPTCHA, bao gồm bất kỳ chương trình nào có thể phân biệt con người với máy tính. Họ đã sáng chế ra nhiều mẫu CAPTCHA, gồm có những CAPTCHA đầu tiên được sử dụng rộng rãi, và cũng chính là những loại được Yahoo! sử dụng.

Ứng dụng
CAPTCHA được dùng để ngăn chặn phần mềm tự động thực hiện những tác vụ có thể làm giảm đi chất lượng dịch vụ của một hệ thống có sẵn, có thể bằng cách lạm dụng hoặc làm hao tổn tài nguyên. CAPTCHA có thể được dùng để bảo vệ hệ thống chống lại spam e-mail, như các dịch vụ webmail của Gmail, Hotmail, và Yahoo!. CAPTCHA cũng được dùng nhiều trong việc ngăn chặn đăng bài tự động trong blog hoặc diễn đàn, có thể với mục đích quảng cáo thương mại, hoặc quấy rối và phá hoại. CAPTCHA cũng có chức năng quan trọng trong hạn chế quá tải, vì việc sử dụng tự động một dịch vụ là điều mong muốn cho đến khi cách dùng đó bắt đầu vượt quá giới hạn, và làm tổn hại đến những người dùng là con người. Trong trường hợp đó, một CAPTCHA có thể thực thi quy định sử dụng tự động do người quản trị đặt ra khi giá trị đo lường mức sử dụng vượt quá một ngưỡng cho trước. Hệ thống xếp hạng bài viết được nhiều trang web tin tức sử dùng cũng là một ví dụ về cơ chế trực tuyến chống lại sự tính toán của phần mềm tự động.

Thứ Năm, 11 tháng 2, 2016

Bài viết hay bàn về việc học chuyên Toán

http://hocthenao.vn/2016/01/20/suy-nghi-ve-he-thong-chuyen-toan-phan-thi-ha-duong/